CHÚA NHẬT V PHỤC SINH. A

CHÚA NHẬT V PHỤC SINH. A
1/ (Cv 6,1-7)    2/ (1Pr 2,4-9 3/ (Ga 14,1-12)

“CHÚA GIÊSU LÀ ĐƯỜNG-LÀ SỰ THẬT-LÀ SỰ SỐNG”
I. Tìm hiểu bài Tin Mừng:
            Có một điều quá hiển nhiên trong thế giới loài người, khi con người sống cùng một thời đại, trong cùng một quốc gia, trong cùng một tập thể, trong cùng một mái ấm gia đình, cũng vẫn có nhiều điểm khác biệt nhau về nhiều mặt, từ tính tình, sở thích đến quan niệm … Còn về niềm khát vọng, ước mong vẫn là chân lý, bình an … Thế nhưng, khát vọng vẫn là khát vọng, ước mong vẫn là ước mong, mà con người vẫn cứ khốn khổ đau thương! Tại sao lại có chuyện ngược đời như thế ? Phải chăng con người đang lầm đường lạc lối khi đi tìm chân lý hạnh phúc!

Tuy là Thiên Chúa, nhưng trong kiếp sống làm người, Chúa Giêsu cảm nhận và hiểu rõ lý do của phận người, Ngài muốn giúp mỗi người đang trên tiến trình đi tìm chân lý hạnh phúc thỏa mãn được ước nguyện của mình. Nên Ngài đã giới thiệu: “Chính Thầy là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).
II. Nhận định:
            Trước những lo buồn xao xuyến của các Tông đồ khi biết cảnh chia ly giữa Thầy và trò sắp xảy đến với họ. Chúa Giêsu vừa giải thích vừa chỉ dạy cho các ông rõ về mối liên hệ sâu xa và bất diệt giữa Ngài với Chúa Cha và giữa họ với Ngài. Đây thật là niềm vui hạnh phúc lớn lao !
1. Tìm hiểu mạch văn: Trong chương 14 tiếp nối của chương 13: Những lời cáo từ của Chúa Giêsu sau khi tiên báo cuộc khổ nạn Người sắp phải chịu, cùng sự phản bội và chối Thầy của Môn đệ. Chúa Giêsu trấn an – Các thành phần của bản văn đều quy hướng về ý tưởng: “Hãy Tin vào Chúa Giêsu và Tin vào Thiên Chúa”.
2. Ý niệm về “Tin”:
a. “Tin rằng” hay “Tin ở” Chúa Giêsu có nghĩa là gì ?
* “Tin rằng” là nhận điều Chúa Giêsu nói là sự thật (Credere quia)
* “Tin ở” là cậy dựa, nương tựa vào ở nơi Chúa Giêsu (Credere in)
            Vậy Tin là vừa sống nhờ vào Lời Chúa vừa cậy dự vào ơn Chúa trọn cả cuộc sống, để từ bỏ chính mình, để bước theo Chúa. Để xác tín niềm tin, phó thác trọn vẹn vào Chúa bằng sự cố gắng hầu vượt qua gian khó, buồn đau.
b. “Tin” ở câu 1 và câu 12 có khác với “Tin” ở câu 10 và câu 11 không ?
* “Tin” ở câu 1 và câu 12 có nghĩa là Cậy dựa vào, nương tựa ở Chúa. Còn ở câu 10 và câu 11 có ý nghĩa là nhận rằng, tin rằng Chúa Giêsu bởi Chúa Cha mà đến, với Chúa Cha, Chúa Giêsu thục hiện ý định của Chúa Cha, cùng Chúa Cha, Chúa Giêsu ban ơn cho những kẻ “Tin” vào Ngài.
c. “Tin rằng” là để có thể “Tin ở”: Đó là chủ đích của đoạn Tin Mừng. Đây là lời mời gọi mỗi người chúng ta: Hãy Tin vào Chúa Giêsu. Phải có cảm nghiệm thực sự bằng chính cuộc sống, chứ không phải bằng tưởng tượng, bằng lời nói suông.
3. Phân đoạn: Có thể chia bài Tin Mừng thành 3 phần:
+ (câu 1-4): Chúa Giêsu trấn an các Tông đồ. Ngài hứa sẽ đưa chúng ta vào nhà Chúa Cha. Vì nhà Chúa Cha có nhiều chơ ở.
+ (câu 5-7): Chúa Giêsu giới thiệu: “Ngài là Đường, là Sự thật, là Sự sống”. Qua Ngài mới đến được vinh quang của Chúa Cha.
+ (câu 8-12): Chúa Giêsu giới thiệu: Ngài với Chúa Cha là Một. Thấy Ngài là thấy Chúa Cha (c 9-11). Hãy tin vào Ngài.
4. Chú thích:
* Bài Tin Mừng này là một trong ba bài giảng sau Bữa tiệc ly, được Thánh Gioan trình bày kế tiếp nhau. Trước nỗi sầu lo của các Tông đò khi biết Chúa Giêsu sắp ra đi … Ngài liền trấn an họ bằng những xác quyết rằng Ngài sẽ hội ngộ với họ bên Chúa Cha và hơn nữa Ngài vẫn hiện diện bằng quyền năng của Ngài (Ga 14,18-20).
* “Anh em đừng xao xuyến”: Sau khi Chúa Giêsu nói cho các Tông đồ biết có một người trong số các ông phản bội (13,21) thì liền gây hoang mang lo sợ nơi các ông. Chúa Giêsu đã trấn an họ vì Người hiểu rõ tất cả.
* “Thầy là Đường”: Chúa Giêsu dùng hình ảnh bình thường và mặc cho ý nghĩa biểu tượng: “Ngài cùng với giáo huấn của Ngài” chính là con đường dẫn tới cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu trong vuông quốc của Chúa Cha.
* “Thầy là sự thật”: Tình yêu chân thật trọn vẹn thì cũng chính là Sự thật. sự thật trên hết mọi sự thật chính là tình yêu của Đức Giêsu Kitoo. Tình yêu vô biên cao cả chết vì yêu, Chúa Giêsu đã thực hiện tình yêu đích thực, là sự thật mà con người phải khiên tốn cung kính, tôn thờ, cảm tạ và yêu mến hết lòng.
* “Và Sự sống”: Đây là sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc trọn vẹn nơi Thiên Chúa. Khác với sự sống hữu hạn bất toàn của con người tại dương thế (Ga17,2-3).
* “Còn làm được nhiều việc lớn lao hơn nữa”: Sách Công Vụ Tông Đồ đã cho thấy các Tông đồ của Chúa Giêsu đã làm được nhiều dấu lạ phi thường trong công cuộc rao giảng. Nhưng tất cả đều là do quyền năng của Chúa Thánh Thần, mà Chúa Giêsu thông ban cho các ông.
5. Để mời gọi các Tông đồ và tất cả chúng ta “Tin” ở mình, Chúa Giêsu đã làm gì ?
Trong cuộc sống khi ta bất lực và tất cả mọi người khác bất lực, nhất là trong vấn đề sinh tử (sự sống đời đời), lúc đó chúng ta mới nghiệm được rằng chỉ một mình Chúa Giêsu mới cứu được chúng ta mà thôi. Chúa Giêsu đã khẳng định: “Không ai đến với Cha mà không qua Thầy”. Như thế, Chúa Giêsu là trung gian, là cầu nối cho những ai muốn có Sự sống với Thiên Chúa Cha. Yếu tố là phải có niềm tin. Chúa Giêsu đã mời gọi: “Hãy Tin vào Thiên Chúa và Tin vào Thầy”.
6. Vấn nạn Kitô học:
Muốn biết Chúa Cha, tin vào Chúa Cha, đến với Chúa Cha thì phải làm gì ?
*          Chúa Giêsu là trung tâm điểm đã xuất phát từ những nhu cầu lớn lao của các Môn đệ là Tin: “Tin ở Cha”. Muốn đến với Cha, muốn thấy Cha thì Chúa Giêsu cho biết Ngài chính là Đường độc nhất dẫn đến Cha: “Thầy là Đường, là Sự thật, là Sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (câu 6).
* Các Môn đệ thấy muốn Chúa Cha, Chúa Giêsu cho các ông biết: “Ai thấy Thầy là thấy Cha”. Vì Tình yêu duy nhất, Ngài ở trong Cha và Cha ở trong Ngài. Các Lời Ngài nói không phải tự Ngài nói ra, mà chính Cha ở trong Ngài nói ra. Khi chúng ta đọc đến đây chắc phải nhớ lại đoạn (Ga 1,18): “Thiên Chúa không ai thấy bao giờ, Con Một ở nơi cung lòng Cha, chính Ngài đã thông trri”. Cho nên, muốn biết Chúa Cha cũng không có con đường nào khác ngoài Chúa Giêsu.
* Cuối cùng Tin ở Chúa Giêsu sẽ làm được những việc Chúa Giêsu đã làm và còn làm được những việc lớn lao hơn nữa (câu 12-14). Tin vào Chúa Giêsu là để Ngài hành động qua ta, chứ không phải do lòng đạo đức của ta: “Lạy Chúa xin dùng con như khí cụ bình an của Chúa”. Như vậy, nếu ta chưa làm được những việc lớn lao là vì ta chưa tin vào Chúa Giêsu hoặc chưa để cho Ngài làm trong ta. Khi ta tin ở Chúa Giêsu, ta muốn làm điều Ngài dạy và Ngài muốn, lúc đó Thiên Chúa sẽ tự do hành động nơi ta và qua ta, những người chung quanh ta cũng nhờ đó mà “Tin” vào Chúa Giêsu.
III. Áp dụng theo Tin Mừng:
            Chúa Giêsu đã giới thiệu cho chúng ta chính Ngài là con Đường, là Sự thật và là sự Sống. Vì chỉ có Ngài mới có thể dẫn đưa chúng ta vào cõi sống muôn đời. Đó chính là niềm hạnh phúc vô biên của Sự sống muôn đời. “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”: Lời khẳng định của Chúa Giêsu vừa là khích lệ, vừa an ủi và mời gọi chúng ta sống liên kết với Ngài qua các Bí Tích, nhất là qua Thánh Lễ mỗi ngày để được bổ sức mà tiến vào cõi phúc muôn đời với Thiên Chúa Cha. Vì chính Ngài là con Đường dẫn chúng ta đến với Cha, trong chân lý sự thật của Sự sống đời đời. Khi chúng ta sống sự thật là chúng ta đang đi trên con đường của Đức Kitô, khi chúng ta chấp nhận Thánh giá trong cuộc đời là chúng ta đang sống sự thật, vì đó là chân lý của lẽ sống: “Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác Thập giá mình mà theo”. Chính vì thế, lời động viên và mời gọi của Chúa Giêsu: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” là yếu tố và động lực cho niềm tin của cuộc sống mỗi Kitô hữu. Hãy “cải ta quy chánh” để thống nhất lại đời sống: “Lời nói phải đi đôi với việc làm, hành động phải thể hiện với niềm tin, vì “Đức Tin không việc làm là Đức Tin chết”. Tin vào Đức Giêsu Kitô là con Đường, là Sự thật và là Sự sống, để rập khuôn như Ngài: Sống như Ngài là sống nên thánh. Nói như Ngài, nói lời chân lý, lời yêu thương, lời ban ơn cứu độ. Làm như Ngài, làm việc lành phúc đức. Để mỗi người chúng ta trở nên nhân chứng của kẻ Tin-Cậy-Mến, nhân chứng của tình yêu và cũng trở nên con đường dẫn anh chị em mình tới Sự thật và Sự sống với Thiên Chúa Cha. Hãy sống niềm Tin vào Thiên Chúa và Tin vào Chúa Giêsu”.
- - - - - - - - - -  oOo - - - - - - - - - -